Năm 1983 là một năm không được tốt cho tôi. Lúc đó tôi mới 23 tuổi. Gia đình tôi ở Nam Dương đang bị khủng hoảng về tài chánh và phải khai phá sản. Tôi sắp sửa học xong chương trình đại học ở Mỹ và bắt buộc phải tự mình lo vấn đề tài chánh trong lúc sống ở nước ngoài để học cho xong. Gia đình tôi cũng không hòa thuận chỉ vì tình trạng tiền nong. Nhiều đêm tôi mất ngủ vì lo lắng, buồn bã cho hoàn cảnh cha mẹ và anh em tôi đang phải trải qua.

Tuy nhiên, có một đêm tôi ngủ rất ngon và mơ thấy một chuyện xảy ra bên Trung Quốc hằng trăm năm về trước. Lúc đó tôi đang đến một ngôi chùa Phật giáo để cầu nguyện và lễ bái các tượng thánh nhân bồ tát như Ðức Phật, Quán Âm Bồ Tát, Lão Tử và Khổng Tử. Trong chùa bầu không khí thật thanh tịnh và an bình. Nhưng khi sắp sửa rời chùa, tôi nghe tiếng ồn ào, rầm rộ từ bên ngoài. Rồi tôi thấy các vị tăng ni bắt đầu đóng, khóa tất cả các cổng gỗ của chùa, khiến tôi bị khóa ở bên trong và lỡ mất cơ hội ra ngoài. Khi thấy tôi, các vị tăng ni liền bảo tôi hãy vào trong trốn.

Do óc hiếu kỳ, tôi đã không nghe lời họ. Nhìn xuyên qua lỗ hổng của chiếc cổng gỗ tôi thấy một bọn người giận dữ đang tiến thẳng đến chùa. Họ đến từ bốn phương tám hướng, tay cầm rìu búa, gươm dao và đuốc, rồi bắt đầu đập các cổng chùa, sau đó dùng rìu chặt cổng. Tôi sợ hãi chạy băng qua sân chùa, vội vã trở vào trong. Tôi định hỏi về đám đông bên ngoài, nhưng mọi người đã trốn đi đâu mất. Tôi muốn biết vì sao đám người kia lại giận dữ đến như vậy. Họ muốn gì? Nhưng tôi không tìm thấy một ai. Tôi hết sức sợ hãi, trách mình đã không nghe lời khuyên của các tăng ni khi họ bảo tôi đi trốn.

Bỗng nhiên, tôi thấy những ngọn đuốc phóng từ bên ngoài lên nóc chùa, và nóc chùa bắt đầu bốc cháy. ối cha! Không có cách nào chạy thoát, ngoại trừ bằng cổng trước. Tôi cảm thấy mình sắp sửa phải chết trong chùa và bắt đầu khóc. Khói bốc mù mịt khắp nơi khiến tôi không còn thấy rõ.

Trong khi bước qua hành lang chùa để tìm một nơi không bị khói, tôi cầu Trời giúp đỡ. Ðột nhiên, tôi thấy một căn phòng được che bởi một tấm vải trắng mỏng đang phát ra ánh sáng rực rỡ. Tôi đến gần căn phòng đó và biết ngay đây là nơi đặt bức tượng Quán Âm Bồ Tát. Tôi nghĩ tới việc cầu nguyện Phật Bà Quán Âm, biết rằng Ngài là đấng Ðại Từ Ðại Bi hằng giúp đỡ nhiều người. Tôi cũng cảm thấy thu hút bởi ánh sáng rực rỡ ấy. Tôi nhớ lại chưa bao giờ được thấy ánh sáng chói lọi như vậy phát ra từ căn phòng này trong những lần trước viếng chùa. Rồi tôi cũng thấy khói trắng bốc ra từ căn phòng, nhưng tôi không sợ, nhất định rằng cầu vị Bồ Tát này giúp đỡ là cơ hội cuối cho tôi.

Sau đó, tôi vén chiếc màn mỏng ra nhưng không thấy rõ tượng Bồ Tát đâu vì những làn khói dầy đặc. Căn phòng tràn ngập ánh sáng, dường như là từ bức tượng phát ra. Tôi đến gần hơn, và thay vì thấy bức tượng thì tôi lại thấy một phụ nữ xinh đẹp trong chiếc áo dài trắng và tấm mạng mỏng trên đầu đang đứng đó. Da của Ngài mịn như châu ngọc và mắt Ngài rạng rỡ ánh tình thương. Ngài mỉm cười đưa tay cho tôi nắm. Tôi cầm tay Ngài và được cứu, lòng cảm thấy an toàn rồi tỉnh giấc.

Về sau, thỉnh thoảng tôi nhớ lại giấc mơ này, tất cả mọi chi tiết đều hiển hiện thật rõ ràng, không giống như những giấc mơ khác mà tôi từng có. Tôi biết giấc mơ này mang ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Những năm sau đó, cuộc sống vẫn khó khăn, nhưng dần dần mọi chuyện khả quan. Tôi đã có thể tự lập và khá giả hơn trước, ngoài ra còn có thể giúp đỡ cho gia đình về tài chánh. Tuy nhiên, dù đời sống thoải mái, tôi vẫn cảm thấy một tâm trạng trống trải bên trong. Qua nhiều năm tôi vẫn tìm kiếm một điều gì đó để điền vào khoảng trống này.

Cuối cùng, tôi đã được diện kiến Sư Phụ vào tháng ba năm 1996, và ngay lập tức ghi danh học thiền Phương Tiện, rồi sau đó đã được thọ Tâm ấn vào tháng bảy cùng năm ấy. Tôi rất trân quí cơ hội thọ pháp và vô cùng cảm tạ Sư Phụ đã cho tôi dịp may vĩnh cửu này. Pháp môn Quán Âm đã đánh tan được cảm giác cô đơn, trống trải trong tôi. Sau khi Tâm ấn, tôi chăm chỉ học hỏi giáo lý Sư Phụ, và cảm thấy rất khát khao những lời pháp của Ngài. Ngoài ra, tôi cũng xem nhiều băng thâu hình và bỏ hàng giờ để nghe Sư Phụ dạy.

Rồi một hôm, tôi thỉnh hai băng thâu hình với đề tài "Lễ Kỷ Niệm Ðệ Tam Chu Niên ngày Thanh Hải Vô Thượng Sư, 25 tháng 10, 1995". Cuốn băng gồm những tiết mục văn nghệ diễn ra trong buổi lễ hội mừng tại Tây Hồ. Khi Sư Phụ xuất hiện trên màn ảnh, tôi kinh ngạc sững sờ: Ngài mặc chiếc áo dài màu trắng, che tấm mạng trắng mỏng, và các đệ tử đang dùng máy nước đá khô để tạo nên cảnh khói bốc trên sân khấu. Sư Phụ đứng trên sân khấu, và giấc mơ năm 1983 chợt hiện lên trong trí. Hình ảnh người phụ nữ đứng trong căn phòng của bức tượng Quán Âm Bồ Tát lại đến với tôi, và tôi đã nhận ra Ngài. Vị đó chính là Sư Phụ! Tôi lập tức nhận ra Sư Phụ chính là người đã cứu tôi trong giấc mộng. Tâm thức tôi bay bổng, lòng tôi xúc động nhìn Ngài trên màn ảnh. Sư Phụ không những đã cứu tôi trong tiền kiếp mà còn ngay cả kiếp này. Dù ý thức tôi không biết, nhưng từ năm 1983, Ngài đã không ngừng để tâm chăm sóc cho tôi. Vô cùng cảm tạ Sư Phụ đã cho con tình thương tràn đầy, vô biên và vĩnh cửu!